This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Lợi ích bất ngờ từ “chuyện ấy” với người luống tuổi

Càng chăm thực hành sex, trí tuệ càng minh mẫn

Các nhà khoa học Trung tâm Sức khỏe tâm lý ở Ultrecht, Hà Lan nghiên cứu 1,7 nghìn tình nguyện viên (TNV) thuộc nhóm tuổi từ 58 đến 98. Các TNV cao tuổi thực hiện hàng loạt trắc nghiệm khó, để xác định năng lực nhận biết và trí nhớ, 2 tố chất thường suy giảm ở tuổi già. Kết quả đã khiến cả tập thể nghiên cứu ngạc nhiên: Các cụ cao tuổi càng chăm thực hành sex, trí tuệ càng minh mẫn!

Điều đó có nghĩa, hoạt động tình dục tích cực duy trì đến tuổi già phát huy tác dụng trẻ hóa não bộ.

“Chuyện ấy” mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho cả hai giới.

“Chuyện ấy” mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho cả hai giới.

Tạo tế bào thần kinh

Trong thời gian nghiên cứu hoạt động của não những cá thể chuột thí nghiệm thực hiện hành vi giao cấu, các nhà khoa học thuộc Đại học Maryland (Mỹ) đã phát hiện, sex kích hoạt sự tạo ra tế bào thần kinh. Ngay nửa giờ thực hành “chuyện ấy” đã đủ, để những tế bào thần kinh mới xuất hiện tại vùng hải mã, khu vực hết sức quan trọng của não, nơi chịu trách nhiệm về ghi chép ký ức vào bộ nhớ dài hạn. Với những cá thể chuột lứa tuổi “trung niên”, sex còn cải thiện năng lực nhận biết, giống như não của chúng được bổ sung liều năng lượng mới.

Các chuyên gia thần kinh (Đại học Konkuk, Hàn Quốc) đã tìm ra đáp án trả lời câu hỏi, tại sao sex mang lại hiệu ứng tích cực cho não bộ. Họ đã phát hiện, trong thời gian thực hành sex, nồng độ hormon stress độc hại đối với não bộ giảm thiểu đáng kể, nhờ thế các tế bào thần kinh mới có thể dễ dàng xuất hiện. Các hormon stress hết sức độc hại đối với não, dẫn đến sự hoại tử nhanh tế bào thần kinh, nhất là ở vùng hải mã. Chính vì thế, những người chịu tác động mạnh của stress thường gặp vấn đề với trí nhớ - GS. Jerzy Vetulani thuộc Viện Dược học, Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan (PAN) cho biết.

Khỏe tim

Sex lành mạnh có thể cải thiện chức năng tim. Các nhà khoa học thuộc Viện New England Research ở Massachusetts (Mỹ) đã chỉ ra rằng, xác suất bị tai biến não hoặc nhồi máu cơ tim của đàn ông sau tuổi 40 không sex hoặc chỉ thi thoảng thực hành sex, cao hơn bình thường tới 2 lần. Phát hiện này được đưa ra sau khi các nhà khoa học phân tích tình trạng sức khỏe trên 1.000 tình nguyện viên trong thời gian 16 năm. Những người đã bị bệnh tim (từng trải qua nhồi máu cơ tim hoặc có nguy cơ cao) cũng không nên từ bỏ “chuyện ấy” - các bác sĩ tim mạch nhấn mạnh. Lợi ích từ sinh hoạt tình dục tích cực lớn hơn so với mối đe dọa rủi ro, các chuyên gia khẳng định trong tuyên bố chính thức của Hiệp hội Tim mạch Mỹ.

Tăng khả năng đề kháng

Sex còn làm tăng khả năng đề kháng của cơ thể, nhất là trong mùa cúm - cảm lạnh. Quan hệ tình dục 1 hoặc 2 lần/tuần kích thích hệ miễn dịch tăng sản xuất lymphocyte (tế bào bạch huyết), đội quân bảo vệ cơ thể trước vi trùng và virut - TS. Jerzy Depko, chuyên gia tình dục, Chủ tịch Hiệp hội Y học tình dục Ba Lan cho biết. Khi ấy đặc biệt gia tăng nồng độ immunoglobin A, thành phần đảm trách phản ứng nhanh của cơ thể chống lại bệnh lây nhiễm. Những người thường xuyên thực hành sex có nồng độ cao immunoglobulin A trong máu rất ít bị nhiễm bệnh, thí dụ cúm hoặc cảm lạnh so với đối tượng có nồng độ immunoglobulin A thấp.

Ngừa ung thư

Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Ung thư Quốc gia Mỹ cho biết, sex sẽ mang lại cảm giác thú vị nhất đồng thời lợi ích sức khỏe tối đa khi có kết thúc cực khoái. Sự phóng tinh - biểu hiện cực khoái của nam giới là một trong những nhân tố quan trọng nhất phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt.

Nghiên cứu trên 30 nghìn đàn ông thuộc nhóm tuổi 46-81. Sau khi quan sát, các nhà khoa học cho biết, tỷ lệ những người đàn ông có cực khoái (phóng tinh) tối thiểu 21 lần/tháng bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn hẳn đồng loại đối chứng.

Với phụ nữ, sinh hoạt thầm kín cũng mang lại hiệu ứng phòng bệnh hiệu quả. Khoa học đã chứng minh, thường xuyên, đều đặn thụ hưởng cực khoái là giải pháp hiệu quả giúp người đẹp ngăn ngừa nguy cơ viêm cổ tử cung và các bệnh lây nhiễm đường tiết niệu.

Ngọc Báu

((Theo Seks, czyli najzdrowsza przyjemność świata))

Phòng bệnh van hai lá do thấp

Theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia, trong những năm gần đây có tới 50% tổng số bệnh nhân nhập viện là các bệnh van tim do thấp và chiếm đến hơn 90% trong số các bệnh tim mắc phải, trong đó chủ yếu là bệnh van hai lá.

Các tổn thương chính trong bệnh van hai lá do thấp

Van hai lá nằm giữa tâm nhĩ và tâm thất trái. Thương tổn van hai lá do thấp tim rất phức tạp và nặng nề. Có 3 loại tổn thương chính là hẹp van, hở van và kết hợp vừa hở vừa hẹp van.

Nguyên nhân chính làm cho van hai lá bị hỏng là do thấp tim không được điều trị triệt để, dẫn đến tổn thương van tim, khiến cho các lá van dày lên, có thể lắng đọng canxi làm lá van cứng lại, hạn chế di động. Các mép van dính lại với nhau gây hẹp lỗ van, các dây chằng dày dính lại với nhau thành một khối khiến van bị hở.

Van hai lá tổn thương do thấp.

Van hai lá tổn thương do thấp.

Dấu hiệu ban đầu của bệnh

Khó thở là dấu hiệu rất phổ biến của bệnh. Người bệnh ban đầu thấy khó thở khi làm việc nặng hoặc khi gắng sức như lên cầu thang, sau đó mức độ khó thở sẽ tăng dần, chỉ cần làm việc nhẹ như sinh hoạt hàng ngày người bệnh đã thấy khó thở và sẽ đỡ khi nghỉ ngơi. Nếu bệnh không được điều trị, mức độ khó thở sẽ tăng hơn nữa khiến người bệnh khó thở cả khi nghỉ không làm gì, ban đêm thường phải ngồi dậy để thở.

Bên cạnh dấu hiệu khó thở, đôi khi bệnh nhân có ho ra máu, có thể chỉ ho ra ít máu. Dấu hiệu này dễ khiến bệnh nhân cũng như thầy thuốc nhầm với bệnh lý của phổi hay đường hô hấp, chỉ khi kiểm tra về tim mới phát hiện ra bệnh.

Rất nhiều bệnh nhân có những biểu hiện trên, nhưng do điều kiện khó khăn hoặc chủ quan không đến khám, khiến mức độ bệnh nặng dần lên. Vì thế đa số người bệnh đến khám khi bệnh ở giai đoạn nặng.

Chẩn đoán bệnh không khó

Bác sĩ chuyên khoa sẽ khám tim, nghe được tiếng thổi bất thường ở vùng tim có thể hướng tới bệnh tim là hẹp hay hở van. Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác cần làm thêm các xét nghiệm chụp phim Xquang, điện tim đồ và đặc biệt là siêu âm tim.

Ngày nay, với siêu âm tim giúp thầy thuốc có thể đánh giá chính xác mức độ hẹp hay hở van. Bên cạnh đó đánh giá được hình thái tổn thương của van, mức độ dày, vôi hóa, cũng như tình trạng dây chằng của van hai lá.

Điều trị thế nào?

Sau khi đánh giá thương tổn van hai lá và các tổn thương phối hợp nếu có ở các van tim khác (như van ba lá, van động mạch chủ), đánh giá chức năng tim, mức độ suy tim, bác sĩ chuyên khoa sẽ có phương án can thiệp phù hợp kết hợp với điều trị nội khoa (điều trị bằng thuốc) trước và sau khi can thiệp. Việc điều trị chống suy tim chủ yếu bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, dùng thuốc chống suy tim và lợi tiểu.

Với tổn thương hẹp van hai lá đơn thuần:

Khi van hai lá chỉ hẹp mà không có hở, có thể mổ nong van bằng dụng cụ hoặc hiện nay phổ biến mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể, cho tim ngừng đập, mở nhĩ trái và mở rộng van hai lá. Với phương pháp này kết quả thường tốt, nhưng với chi phí cho phẫu thuật còn rất cao nên đôi khi vẫn phải lựa chọn mổ nong van bằng dụng cụ, với chi phí phẫu thuật thấp hơn, tuy nhiên kết quả hạn chế hơn.

Có một phương pháp khác là nong van bằng can thiệp mạch qua da. Bác sĩ chuyên khoa can thiệp mạch sẽ dùng một ống thông luồn trong lòng mạch máu từ tĩnh mạch đùi ở bẹn, ống thông đi theo tĩnh mạch về tâm nhĩ phải, rồi chọc qua vách liên nhĩ sang nhĩ trái, sau đó đưa qua van hai lá xuống thất trái. Đầu ống thông có quả bóng, khi bơm căng bóng sẽ nong rộng lỗ van. Với phương pháp này, bệnh nhân không phải phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng khi tình trạng van còn tương đối tốt, chỉ hẹp van đơn thuần hoặc kết hợp hở nhẹ. Nếu bệnh nhân đến muộn, van tổn thương nặng nề thì chỉ có phương pháp duy nhất là phẫu thuật thay van hai lá nhân tạo.

Với tổn thương hở van hai lá hoặc kết hợp hở - hẹp van hai lá:

Trong trường hợp này điều trị duy nhất là phẫu thuật sửa hoặc thay van hai lá với tuần hoàn ngoài cơ thể. Chỉ định sửa hay thay van không chỉ phụ thuộc vào mức độ thương tổn của van mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như tuổi, cơ sở vật chất, kinh tế người bệnh, khả năng kinh nghiệm của thầy thuốc... Tuy nhiên khi lá van dày, vôi hóa nhiều, dây chằng lá van co rút nặng thì phải thay van nhân tạo, nếu lá van còn mềm mại, dây chằng chưa thương tổn nặng thì nên sửa van.

Việc phòng bệnh thấp tim là vô cùng quan trọng bởi vì liên cầu khuẩn có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da và dễ lây nhiễm. Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường, khí hậu ẩm thấp như hiện nay, hoặc thiếu vệ sinh, điều kiện dinh dưỡng không đảm bảo... Nếu bệnh nhân có các dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do liên cầu khuẩn tan máu β nhóm A như: sốt, viêm họng, viêm amiđan, sưng hạch bạch huyết dưới hàm, nuốt đau, hoặc phát hiện trẻ có dấu hiệu đau khớp thì cần đưa ngay trẻ đến khám tại các cơ sở y tế.Cần chú ý biện pháp tuyên truyền để người dân biết lợi ích của việc điều trị viêm họng, nhất là cho trẻ cũng như hậu quả tai hại của bệnh van tim do thấp, phổ biến giáo dục sức khỏe cho trẻ giữ vệ sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất, cải tạo môi trường sống, nâng cao chất lượng sống, thoát nghèo là một yếu tố rất quan trọng.

BS. Quang Anh

7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểm

Hội chứng không ngủ

Hội chứng mất ngủ trong gia đình (tên tiếng anh Fatal Famillial Insomnia - FFI) là căn bệnh phát sinh do một rối loạn gene hiếm gặp và được chẩn đoán phát hiện trong khoảng 40 gia đình trên toàn thế giới. FFI là căn bệnh có diễn biến bí ẩn với những triệu chứng mất ngủ triền miên có thể kéo dài đến vài tháng không rõ nguyên nhân. Người mắc chứng bệnh này thường rơi vào trạng thái trằn trọc không thể ngủ, đầu óc lơ mơ. FFI là căn bệnh khó chẩn đoán bởi các triệu chứng của nó cũng giống như bệnh mất trí nhớ, nghiện rượu và viêm não. Hội chứng này thường xảy ra ở người từ 32 - 62 tuổi và có thể dẫn đến tử vong trong vòng từ 12 - 18 tháng.

Đột tử về đêm

Đột tử về đêm hay còn gọi là hội chứng Brugada là hội chứng rối loạn nhịp tim đe dọa đến tính mạng có thể có tính di truyền. Những người mắc hội chứng này có nguy cơ gia tăng nhịp thất. Nhiều người mắc hội chứng Brugada không có bất cứ triệu chứng nào, do đó không biết gì về tình trạng của mình. Căn bệnh này xuất hiện vào những năm 1980, có tần suất cao ở các nước Đông Nam Á. Người ta phát hiện những người đàn ông trẻ di cư từ các nước Đông Nam Á sang Mỹ bị chết đột ngột trong lúc ngủ nhưng trước đó hoàn toàn khỏe mạnh và không có bệnh tim. Sau đó, ở đầu thập niên 1990, bệnh này được mô tả ở Thái Lan, Philippines, Nhật Bản. Năm 1998, các nhà khoa học thấy rằng đột tử về đêm xảy ra ở khắp nơi trên thế giới có biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng giống nhau, không giới hạn vùng địa lý nào.

7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểm7 hội chứng giấc ngủ nguy hiểmTắc nghẽn đường thở - Một trong những rối loạn giấc ngủ nguy hiểm.

Hiện tượng “giật cơ lúc ngủ”

Hay còn gọi là hypnic jerk, xảy ra khi các cơ bắp, đặc biệt là ở chân vô tình co bóp đột ngột. Hiện tượng này gây tranh cãi trong giới khoa học và nhiều giả thuyết được đưa ra. Nhiều người cho rằng sự thức tỉnh bất ngờ cho phép chúng ta kiểm tra môi trường lần cuối - đảm bảo xung quanh thực sự an toàn để chìm vào giấc ngủ - bằng cách tạo ra phản ứng giống như giật mình. Một giả thuyết khác cho rằng hiện tượng này cho phép chủ thể kiểm tra sự ổn định vị trí cơ thể trước khi ngủ, đặc biệt nếu nằm ở nơi không bằng phẳng. Lý thuyết khác cho rằng hiện tượng hypnic jerk chỉ đơn thuần là một triệu chứng nhượng bộ của hệ thống sinh lý giai đoạn đầu của giấc ngủ khi chuyển đổi từ cơ chế thức sang cơ chế ngủ của cơ thể.

Ngưng thở khi ngủ

Đây là một rối loạn giấc ngủ thường gặp, xảy ra khi đường hô hấp liên tục bị tắc nghẽn, hạn chế lượng không khí đến phổi. Những người bị rối loạn này thường ngáy to, đôi khi kèm theo tiếng khịt mũi hoặc tiếng thở như bị nghẹt. Lượng không khí trong phổi ít đi khiến cho não bộ và cơ thể không được cung cấp đủ oxy khiến người bệnh tỉnh dậy trong đêm. Ngưng thở khi ngủ khiến cơ thể mệt mỏi, thiếu tập trung vào ngày hôm sau và dẫn đến một số hậu quả tiêu cực với sức khỏe bao gồm tăng huyết áp, bệnh tim, đột quỵ, tiền đái tháo đường, đái tháo đường và trầm cảm.

Hội chứng người đẹp ngủ

Hội chứng Kleine - Levin (KLS) hay còn gọi là hội chứng người đẹp ngủ là một hiện tượng rối loạn thần kinh về giấc ngủ và ăn uống. Mắc chứng bệnh này, người bệnh thường ngủ li bì cả ngày lẫn đêm, chỉ thức dậy để ăn uống và vệ sinh. Họ thường trải qua các trạng thái mộng du, thiếu cảm xúc như người bị bệnh trầm cảm. Người bệnh thường không có khả năng chăm sóc mình, họ nằm lì trên giường, tỏ ra kín đáo và mệt mỏi kể cả lúc tỉnh táo. Theo các chuyên gia, hội chứng này thường phát bệnh trong thời thanh thiếu niên là 1%, khoảng 70% người bệnh là nam giới. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể do khuynh hướng di truyền hoặc là kết quả của một rối loạn tự miễn dịch dẫn đến chứng bệnh này. Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nhưng căn bệnh này sẽ tự khỏi sau 8 - 12 năm.

Rối loạn hành vi chu kỳ giấc ngủ

Rối loạn hành vi chu kỳ giấc ngủ liên quan đến hành động hoặc hành vi bất thường trong giai đoạn ngủ mắt cử động nhanh (REM). Giấc ngủ REM là một giai đoạn của chu kỳ ngủ, thường xảy ra từ 1,5 - 2 giờ trong một giấc ngủ bình thường. Các nhà nghiên cứu chia giấc ngủ thành 2 giai đoạn NREM (non rapid eye movement) và REM (rapid eye movement). Trong giai đoạn REM của giấc ngủ, cơ thể tạm thời ở trạng thái liệt cơ, ở những người mắc rối loạn hành vi giấc ngủ REM, những tê liệt này không đầy đủ hoặc không có, vì vậy người đó thực hiện những giấc mơ của họ bằng các hành động bạo lực, kịch tính. Người mắc bệnh này thường la hét, nghiến răng, có những hành động bạo lực như đấm đá trong giấc ngủ REM. Bệnh thường gặp ở nam giới trên 50 tuổi, rất hiếm thấy ở phụ nữ và trẻ em.

Hội chứng nghiến răng lúc ngủ

Hội chứng nghiến răng lúc ngủ có tên tiếng Anh là bruxism là bệnh nhai hay nghiến răng vào ban đêm lúc ngủ hay ban ngày. Phụ nữ thường bị chứng bruxism nhiều hơn vào ban ngày. Hàm răng của những người mắc chứng bruxism thường bị mòn hoặc có vết nứt, gãy ở chân. Người bệnh nặng có thể bị nhức đầu, đau tai, đau các cơ bắp, hàm vì các cơ này phụ trách cử động xuống hàm dưới phải hoạt động quá nhiều, một phần do khớp hàm - thái dương bị tổn thương. Nghiến răng lúc ngủ được xem là một rối loạn cử động liên hệ tới gấc ngủ. Bruxism thường đi kèm với các rối loạn khác của giấc ngủ như ngủ ngáy, ngưng thở khi ngủ.

Minh Huệ

((Theo listverse ))

Hậu quả của viêm đại tràng mạn tính

Nguyên nhân

Hầu hết viêm đại tràng mạn tính xuất phát từ viêm đại tràng cấp do điều trị không dứt điểm hoặc tự mua thuốc điều trị dẫn đến viêm đại tràng mạn. Đại đa số bệnh viêm đại tràng mạn tính là do nhiễm ký sinh trùng lỵ amíp (Entamoeba histolitica), Giardia, Candida hoặc vi khuẩn lỵ trực khuẩn (Shigella), E.coli, Clostridium difficile (gây viêm đại tràng màng giả), Salmonella, vi khuẩn lao (M. tuberculosis) hoặc virút Herpes hoặc do polyp đại tràng… Khi mắc bệnh kiết lỵ cấp nếu không phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ, ký sinh trùng amíp sẽ tạo thành kén ở ngay dưới niêm mạc đại tràng và trở thành viêm đại tràng mạn tính.

viêm đại tràng mạn tính

Viêm đại tràng mạn tính do lao có thể gặp ở một số trường hợp đang bị lao phổi hoặc thứ phát sau khi bị lao phổi (50% số bệnh nhân lao ruột có hình ảnh lao phổi khi chụp X-quang phổi). Các loại nhiễm trùng khác do vi khuẩn Shigella, Salmonella, vi nấm, virút có thể tổn thương chủ yếu ban đầu ở các bộ phân khác của đường ruột (ruột non) nhưng nếu không điều trị tích cực, vẫn có thể gây nên viêm đại tràng cấp, dẫn đến viêm đại tràng mạn tính.

Không ăn rau sống, không uống chưa đun sôi, không ăn thịt chưa nấu chín

Viêm đại tràng mạn tính còn có thể do dị ứng, nhất là dị ứng thức với ăn hoặc viêm đại tràng tự miễn hoặc do dùng thuốc kháng sinh kéo dài gây loạn khuẩn ruột. Viêm đại tràng do nguyên nhân tự miễn thường biểu hiện viêm, loét không đặc hiệu giống như viêm đại tràng do amip hoặc Shigella hoặc Salmonella. Một số trường hợp viêm đại tràng mạn tính còn có thể do rối loạn hệ thần kinh thực vật. Ngoài ra, có thể do ngộ độc hóa dược dùng điều trị một bệnh khác như thyroxin (điều trị bướu cổ) hoặc do urê máu tăng cao liên tục trong một thời gian dài hoặc do xạ trị vùng chậu.

Triệu chứng

Đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất. Đau âm ỉ ở phần dưới rốn (bụng dưới, hạ vị), có thể đau bụng dọc theo khung đại tràng (hố chậu phải có đại tràng lên, trên rốn có đại tràng ngang và hố chậu trái có đại tràng xuống). Sau khi ăn, đau bụng dễ xuất hiện, đôi khi đau, buồn đi ngoài, sau khi đại tiện, hết đau. Viêm đại tràng mạn, bụng nhiều hơi, đau, vì vậy, trung tiện nhiều và sau khi trung tiện, bụng đỡ đau hơn. Nhiều trường hợp, ban đêm đau bụng nhiều hơn, nhất là lạnh. Kèm theo đau bụng, trung tiện nhiều là rối loạn tiêu hóa (miệng đắng, chán ăn, ăn không tiêu kéo dài), phân nát, không thành khuôn, đi đại tiện nhiều lần (4 - 5 lần trong một ngày đêm), tuy vậy, đôi khi phân lại rắn gây táo bón. Bụng hơi trướng (nhiều hơi nên trung tiện nhiều), cảm giác căng tức, khó chịu.

Để chẩn đoán viêm đại tràng mạn tính, ngoài chụp đại tràng có thuốc cản quang (sau khi đã thụt tháo), nội soi và sinh thiết để xác định nguyên nhân là rất cần thiết. Với bệnh viêm đại tràng mạn tính nghi do vi khuẩn lao cần phải xét nghiêm phân hoặc mảnh sinh thiết để tìm vi khuẩn lao bằng kỹ thuật nhuộm Zin - Nenxen hoặc xác định vi khuẩn lao thông qua phản ứng sinh học phân tử khuếch đại gen PCR (Polymerase Chain Reaction). Viêm đại tràng mạn tính do loạn khuẩn, cần xét nghiệm phân để đánh giá hệ vi khuẩn chí đường ruột. Ngoài ra, có thể xác định nấm, lỵ amíp và tìm hồng cầu, bạch cầu.

viêm đại tràng mạn tínhNội soi và sinh thiết để xác định nguyên nhân là rất cần thiết

Hậu quả

Hậu quả của viêm đại tràng mạn tính là dễ tái phát, rối loạn tiêu hóa kéo dài dẫn đến rối loạn hấp thu dẫn tới gầy yếu, ăn kém làm suy kiệt.và đưa đến tử vong. Ngoài ra, bệnh có thể có biến chứng gây thủng ruột (lỵ amíp) hoặc phình đại tràng hoặc ung thư hóa, nhất là trong các trường hợp có nhiếu polyp đại tràng, kích thước lớn.

Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh

Để điều trị viêm đại tràng mạn tính có hiệu quả tốt nhất là xác định được nguyên nhân, trên cơ sở đó sẽ dựa vào phác đồ để điều trị có hiệu quả (điều trị nội khoa), nếu do polyp sẽ điều trị ngoại khoa (cắt bỏ).

Để không mắc bệnh viêm đại tràng mạn tính, trước tiên không để mắc bệnh viêm đường ruột, nhất là viêm ruột cấp tính. Dó đó cần đảm báo vệ sinh an toàn thực phẩm thật tốt. Không ăn rau sống, không uống chưa đun sôi, không ăn thịt chưa nấu chín (tiết canh hoặc nem chua, nem chạo), không uống sữa bò tươi chưa tiệt trùng, tránh dùng kháng sinh kéo dài, điều trị tích cực khi bị lao phổi. Năng vận động cơ thể.

Lời khuyên của thầy thuốcKhi bị viêm đại tràng mạn tính cần quan tâm đến chế độ ăn. Hàng ngày nên ăn nhiều rau, trái cây, chất xơ. Khi bị tiêu chảy cần tránh hẳn chất xơ dạng không tan như cellulose để thành ruột khỏi bị “cọ xát”. Có thể ăn trái cây xay nhừ như: chuối, táo, dưa hấu…Hạn chế đến mức tối đa ăn chua cay. Cần hạn chế sử dụng các sản phẩm từ sữa, bởi vì, trong sữa có loại đường lactose rất khó tiêu, ngoài ra, chất đạm của sữa có thể gây dị ứng cho bệnh nhân. Vì vậy, nên thay thế bằng sữa đậu nành. Tránh những thức ăn có hàm lượng dầu mỡ quá cao như các món rán, xào, sốt và cần tránh các thuốc kháng viêm, giảm đau không steroid (aspirin, Ibuprofen, Naprosyn, Voltaren, Feldene) vì có thể chúng sẽ “ăn mòn” niêm mạc dạ dày, ruột, làm tăng nguy cơ xuất huyết.

PGS.TS.BS. BÙI KHẮC HẬU

Cắt amidan có giúp giảm đau họng?

Nguyễn Thị Minh Đức(minhduc@yahoo.com)

Amidan là tổ chức lympho ở vùng hầu họng, nằm ở hai bên lưỡi gà. Viêm amidan và viêm họng là bệnh thường gặp, đôi khi song hành nhưng cũng có khi độc lập. Viêm họng là do nhiễm khuẩn bởi các loại vi khuẩn thường gặp như: liên cầu, tụ cầu, nấm… không liên quan đến tuyến amidan. Nhiều người bị viêm họng thường sưng amidan. Nhưng không phải hễ viêm họng là sưng amidan. Chẳng hạn các trường hợp viêm họng mà không có sưng amidan như: viêm họng do cảm lạnh, do dị ứng với thời tiết, viêm họng trong bệnh cúm. Nên dù có cắt amidan hay không thì bệnh viêm họng vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên, theo nghiên cứu thì việc cắt amidan có giảm tái phát viêm họng và mức độ viêm họng nặng cũng giảm nhưng không hết hẳn. Trên lâm sàng có thể viêm amidan cấp, viêm mạn và viêm hốc mủ, áp-xe amidan... Khi bị viêm amidan người bệnh thường bị sốt cao 39-40oC, đau họng, khó nuốt, hôi miệng… Việc điều trị bao gồm thuốc giảm đau, chống viêm và kháng sinh, kết hợp súc miệng nước sát khuẩn họng. Nếu điều trị nội khoa không kết quả hoặc gây áp-xe amidan thì cần can thiệp phẫu thuật. Tuy nhiên không phải cứ thấy viêm là cắt mà người ta cắt amidan trong các trường hợp: bị viêm amidan nhiều lần hay tái phát, amidan quá to ảnh hưởng đến thở và nuốt, amidan là ổ nhiễm khuẩn. Trường hợp của bạn nếu có chỉ định cắt không thể trì hoãn thì bạn nên tuân thủ chỉ định của bác sĩ, còn không thì tốt nhất bạn nên dùng thuốc theo đơn. Tuy nhiên, nếu đã dùng kháng sinh hơn một tuần không đỡ bạn nên khám lại, vì có thể vi khuẩn nhờn kháng sinh. Tốt nhất, bạn nên đi khám chuyên khoa tai - mũi - họng.

BS. Hoàng Văn Thái

Ngồi lâu một chỗ có tác hại gì cho sức khỏe?

Ngồi lâu một chỗ kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng chủ yếu do nghề nghiệp (công tác văn phòng, sửa chữa đồ điện tử lái xe đường dài, lái xe tắc xi, lái tàu hỏa…) hoặc do tàn tật không đi lại được hoặc đi đứng hạn chế hoặc do tuổi cao sức yếu, tai biến… không có người chăm sóc, hỗ trợ...

Tác hại đến sức khỏe

Một nghiên cứu mới đây của Australia cho thấy, những người ngồi trên 6 giờ một ngày, khả năng chết sớm trong vòng 15 năm tăng lên 40% so với những người chỉ ngồi 3 tiếng cho dù có tập thể dục, thể thao, chế độ ăn uống tốt. Nhiều người do áp lực công việc nên phải ngồi ở bàn làm việc cả ngày (từ 8 - 10 tiếng đồng hồ/ngày), tuy nhiên không phải ai cũng biết thói quen này lại là nguyên nhân khiến sức khỏe, trí tuệ giảm sút với rất nhiều chứng bệnh khác nhau. Các nhà nghiên cứu tổng kết thấy, không cần biết giới tính, cân nặng hay độ tuổi của họ là bao nhiêu, nguy cơ tử vong của những người có thói quen ngồi lâu một chỗluôn luôn cao hơn những người khác không ngồi lâu một chỗ.

Ngồi lâu một chỗ có tác hại gì cho sức khỏe?Trọng lực của cơ thể tác động nhiều giờ, nhiều ngày vào cột sống thắt lưng gây đau, mỏi thắt lưng

Trong cuộc sống thường ngày, một số người do ngồi lâu, cơ thể thiếu vận động, sẽ khiến nhu động ruột, dạ dày ngày một yếu đi, dịch tiêu hóa bài tiết cũng giảm dẫn đến tình trạng rối loạn tiêu hóa (biếng ăn, ăn uống kém ngon, hay bị chứng đầu hơi, chướng bụng, khó tiêu) và hệ tiêu hóa hoạt động kém hiệu quả, nguồn dinh dưỡng được cung cấp cho cơ thể hạn chế làm cho sức khỏe ngày càng suy yếu. Nếu người cao tuổi ngồi lâu một chỗ sẽ rất dễ bị suy dinh dưỡng, với người đang trong độ tuổi lao động sẽ giảm sút năng suất lao động. Đi kèm với các tác hại đó, ngồi lâu một chỗ dần dần làm tổn thương vùng đầu, cổ, cột sống, trong đó thể hiện rõ nhất là cột sống cổ, cột sống thắt lưng. Biểu hiện của thoái hóa cột sống cổ làm cho người bệnh rất khó chịu do đau cổ, mỏi cổ, cổ không linh hoạt (quay đầu, xoay người từ hạn chế đến khó khăn), đau vai, thần kinh vai gáy, chuột rút cơ gáy, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt do thoái hóa cột sống cổ gây rối loạn tuần hoàn não (hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn, nôn, đi đứng loạng choạng…). Ngồi lâu một chỗ, trọng lực của cơ thể tác động nhiều giờ, nhiều ngày vào cột sống thắt lưng gây đau, mỏi thắt lưng. Từ đó góp phần vào làm thoái hóa sụn đệm cột sống gây chèn ép rễ dây thần kinh, tủy sống hoặc động mạch cột sống… dẫn đến thoát vị đĩa đệm, đau dây thần kinh tọa nếu không được chữa trị có thể gây biến chứng teo cơ đùi, cẳng chân, thậm chí tàn phế. Thêm vào đó, nếu ngồi liên tục trong 3 - 4 tiếng đồng hồ trở lên, ít vận động, quá trình lưu thông máu trong cơ thể sẽ bị ảnh hưởng và khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là vùng chậu và vùng chi dưới làm tê mỏi, hạn chế vận động. Ngồi lâu một chỗ, ít vận động chính là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng thừa cân, béo phì, đặc biệt là nguy cơ tăng kích cỡ vòng 2 đối với chị em phụ nữ.

Các nhà nghiên cứu cho biết rằng, khi ngồi lâu một chỗ, cơ bắp đốt cháy ít chất béo và tuần hoàn hoạt động chậm hơn cho nên máu lưu thông đến các cơ quan chậm hơn. Vì vậy, các axít béo dễ dàng làm tắc nghẽn các động mạch nhỏ dẫn đến bệnh tim mạch (thiếu máu mạch vành, thiếu máu đi lên não), có thể dẫn đến đột quỵ. Một số trường hợp, ngồi lâu một chỗ, ngoài việc àm ảnh hưởng xấu đến hệ tiêu hóa, cột sống hoặc lưu thông máu kém còn gây nên tình trạng bài tiết của thận bị suy giảm do lượng máu đến thận ít hơn hoặc ngồi lâu làm ứ đọng nước tiểu dễ gây nên viêm thận ngược dòng (ứ mủ, ứ nước bể thận) làm tổn thườn cầu thận gây suy thận. Các tác giả nghiên cứu cũng cho thấy ngồi lâu một chỗ kéo dài khiến các cơ quan trong cơ thể hoạt động kém nhịp nhàng, gây rối loạn sinh học, thần kinh căng thẳng, làm ảnh hưởng xấu đến giấc ngủ (ngủ không sâu, hay tỉnh giấc, ngủ chập chờn, khi tỉnh giấc thường ngủ trở lại rất khó). Ngồi lâu một chỗ, dần dần trở nên sợ hoặc lười vận động từ đó làm cho cơ thể mất đi tính nhanh nhẹn, năng động vốn có gây ra những trì trệ trong công việc và cuộc sống.

Với phụ nữ đang mang bầu, nếu chỉ ngồi lâu một chỗ nhiều giờ trong một ngày, nhiều tháng liên tục sẽ làm cho máu lưu thông kém gây phù chân (chưa kể một số chị em đang mang bầu do chèn ép của thai nhi gây phù chân), khung chậu không được vận động thường xuyên, khi chuyển dạ sẽ có thể gặp khó khăn.

Nên làm gì?

Theo một nghiên cứu cho thấy khi giảm thời gian ngồi, xuống dưới 3 tiếng đồng hồ một ngày, tuổi thọ có khả năng sẽ tăng lên đến 2 năm và ngược lại. Vì vậy, mọi người, nhất là những người có nghề nghiệp đặc thù phải ngồ lâu (công tác văn phòng, đọc tài liệu nghiên cứu, viết văn viết báo, đánh máy…) cần hạn chế đến mức tối đa ngồi lâu một chỗ. Vì vậy, cứ vài ba tiếng đồng hồ nên đứng dậy đi lại khoảng từ năm, mười phút hoặc cử động tay chân, thân thể như đang tập thể dục buổi sáng. Nếu lái xe, lái tàu, lái tắcxi… vài ba tiếng đồng hồ nên nghỉ giải lao, đi lại, vươn vai, cúi xuống, ngẩng đầu lên, xoay mình khoảng chừng mười phút để máu được lưu thông. Không nên nhịn tiểu, ngồi lâu một chỗ, bởi vì, nhịn tiểu càng dễ làm ảnh hưởng xấu đến chức năng bài tiết nước tiểu và giải phóng nước tiểu, từ đó ảnh hưởng xấu đến thận, vì vậy, cứ khoảng vài tiếng nên chủ động đi tiểu một lần.

Người cao tuổi, sức yếu, đi lại khó khăn cứ vài ba tiếng đồng hồ nên dùng nạng, gây hoặc vịn vào giường, bờ tường hoặc có người hỗ trợ nên đi lại năm, ba phút đồng hồ hoặc người có tuổi, sức yếu nên đi lại chầm chậm trong nhà, trong sân một ngày vài ba lần.

BS. VIỆT THANH

“Liệu pháp” dinh dưỡng trị sỏi tiết niệu tái phát

Tình trạng tái phát của sỏi tiết niệu đặt ra câu hỏi về quá trình hình thành sỏi. Đây là hậu quả của sự mất cân bằng, cần phải có thời gian để tạo lại tình trạng ổn định nhằm loại bỏ nguyên nhân gây. Để tránh sỏi tiết niệu tái phát, người bệnh cần có những kiến thức phòng ngừa bệnh mà chế độ ăn uống là một yếu tố rất quan trọng.

Những nguyên tắc cơ bản về dinh dưỡng để tránh sỏi tái phát

Cần được áp dụng trước khi quá trình tạo sỏi xảy ra nhằm tránh sự tái phát của sỏi dựa trên sự hiểu biết về cơ chế tạo sỏi của từng bệnh nhân, bao gồm: tăng bài tiết nước tiểu; sử dụng thực phẩm đa dạng và cân bằng; những lời khuyên về thực phẩm.

Đồ uống thích hợp để tăng bài niệu và cung cấp canxi

Bệnh nhân cần uống nhiều nước. Mục đích để đạt được trên 2,5 lít nước tiểu ổn định trong toàn bộ thời gian mỗi ngày với tỷ trọng nước tiểu vào buổi sáng đạt khoảng 1010. Việc tăng số lượng nước tiểu nhằm mục đích hòa loãng nước tiểu trong thời gian cả ngày và đêm để giảm nồng độ các chất tạo sỏi trong nước tiểu.

Số lượng nước uống mỗi ngày tùy theo thời tiết, các hoạt động cá nhân, trọng lượng cơ thể; chia đều lượng nước uống trong cả ngày và đêm; đa dạng các loại nước uống: nước uống thông thường, nước có ga, tránh đồ uống có đường hoặc muối. Trên thực tế, nhiều bệnh nhân dễ bị sỏi tái phát do không áp dụng đúng việc uống nước đủ và đều. Cần uống đủ và nhất là phân chia lượng nước uống đều trong cả ngày lẫn đêm để giảm độ cô đặc của nước tiểu, nhất là về buổi sáng. Một số kinh nghiệm nhỏ rất hữu ích đó là thường xuyên đem theo những chai nước nhỏ khi ra khỏi nhà, uống nước trước và sau khi đi tiểu, uống trước khi ngủ và ngay khi tỉnh dậy...

Cung cấp canxi phù hợp: Ngoài tác dụng hòa loãng nước tiểu, đồ uống còn là nguồn cung cấp các chất khoáng. Cần biết rõ thành phần chất khoáng có trong đồ uống để tránh đưa vào cơ thể quá nhiều canxi, phospho, magne...

Sử dụng thức ăn đa dạng và cân bằng

Các loại thức ăn khác nhau cần được phân đều trong nhiều bữa ăn trong ngày nhằm bảo đảm dinh dưỡng mà không gây tăng đậm độ nước tiểu quá cao.

Những sai lầm thường gặp về dinh dưỡng:

Về nhu cầu: Những bệnh nhân bị sỏi tái phát thường có thói quen xấu là ăn quá nhiều muối và đạm trong khi đó lại thiếu rau và nước.

Về phân bố các bữa ăn: Sỏi tái phát thường gặp ở những người chỉ dùng 1 bữa chính trong ngày, chủ yếu là bữa tối. Bữa sáng thường ít, bữa trưa chủ yếu là thức ăn nhanh trong khi đó bữa tối lại quá nhiều chất bổ , đặc biệt là đạm và chất khoáng.

Phân phối các bữa ăn hợp lý:

Việc phân bố các bữa ăn trong ngày rất quan trọng nhằm cung cấp dinh dưỡng và giữ đậm độ nước tiểu hợp lý. Cần có ít nhất 3 bữa trong ngày thay đổi với sự cân đối các loại thức ăn cần thiết sau: sữa và các sản phẩm của sữa; thịt, cá, trứng; tinh bột; rau xanh; hoa quả.; chất béo.

Chế độ ăn đa dạng có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa sỏi niệu tái phát.

Lời khuyên về dinh dưỡng

Sử dụng nhiều loại thực phẩm đa dạng, cân bằng, chia đều phù hợp với từng người. Mỗi bữa ăn phải cung cấp đủ thành phần sau: chất đạm, can-xi, rau, hoa quả, tinh bột, chất béo, vitamin D, muối.

Chất đạm: Thịt, cá, trứng: nên ăn ít (phù hợp theo lượng cơ bắp của từng người) và phải chia đều trong các bữa ăn để tránh cô đặc urê trong nước tiểu. Chỉ nên ăn 1gr chất đạm/1kg cân nặng/ ngày và chia đều trong 3 bữa ăn.

Chất canxi: Sữa và sản phẩm của sữa: canxi và vitamin D cần thiết cho xương, cơ, thần kinh.

Quan niệm sai lầm hay gặp là kiêng uống sữa để tránh sỏi tái phát hoặc ngược lại, sử dụng quá nhiều sữa và sản phẩm của sữa. Đối với bệnh nhân sỏi tiết niệu, các nhà dinh dưỡng khuyên dùng sữa hàng ngày (nhưng phải uống thêm nước và chia nhỏ thành nhiều lần). Sữa và sản phẩm của sữa cung cấp nhiều canxi, với bệnh nhân sỏi tiết niệu cần đưa vào cơ thể khoảng 900mg canxi/ngày, trong khi đó 1 hộp sữa tươi 180ml cho khoảng 200mg canxi; 100gr fromage trắng = 110mg canxi; 125gr sữa chua = 180mg canxi.

Rau: Cần ăn rau trong tất cả các bữa. Rau cung cấp chất xơ, kali, magne... và rất ít năng lượng.

Hoa quả: Ngược lại với rau, hoa quả có rất nhiều đường nên cần hạn chế, chỉ nên ăn 2-3 quả nhỏ mỗi ngày. Nước hoa quả không có chất xơ nhưng có nhiều đường nên cần hạn chế sử dụng như hoa quả.

Tinh bột: cơm, bánh mỳ, đậu... cung cấp nhiều tinh bột, đường, vitamin, chất khoáng. Tinh bột được sử dụng trong các bữa ăn để tùy theo nhu cầu cung cấp năng lượng.

Chất béo: Số lượng chất béo tiêu thụ hàng ngày tùy theo nhu cầu năng lượng cơ thể. Chất béo cung cấp acid béo, vitamin A, D và E. Hiện nay việc cung cấp DHA và EPA thường chưa đủ. Chất béo nguồn gốc thực vật rất tốt, chúng cung cấp kali, magne và chất xơ.

Vitamin D: Tình trạng thiếu hụt vitamin D rất phổ biến ngay cả với chế độ ăn đa dạng và cân bằng. Lưu ý rằng, vitamin D có nhiều trong dầu ăn, sữa.

Muối: Sử dụng nhiều muối gây tăng natri trong nước tiểu dẫn đến việc đào thải nhiều canxi, oxalate, cystine, acide uric là các chất dễ lắng đọng trong nước tiểu gây ra sỏi. Mỗi ngày cần dùng 6-8g muối chia đều trong các món ăn. Để biết chính xác lượng muối cung cấp đủ hay không dựa vào hàm lượng muối trong nước tiểu (bình thường từ 100-150meq/ngày).

Công thức tính lượng muối cần dùng mỗi ngày dựa theo hàm lượng muối trong nước tiểu: natri nước tiểu 24 giờ tính theo mmol/17 = gr muối/ngày. Cần lưu ý các loại thức ăn chứa nhiều muối, chia đều lượng muối trong các bữa ăn, nên dùng thêm rau thơm, phẩm màu thực vật để giảm lượng muối.

Tăng khả năng chống sỏi tái phát

Việc tăng tiêu thụ citrate, potassium và magnesium trong khẩu phần ăn hàng ngày giúp việc chống tạo sỏi. Nên dùng các loại nước chanh, rau xanh, ngũ cốc, bánh mỳ, đậu.

Người thân trong gia đình có trách nhiệm nhắc nhở bệnh nhân thực hiện đúng và thường xuyên chế độ dinh dưỡng. Việc tham gia câu lạc bộ nhưng người bị sỏi sẽ tăng cơ hội trao đổi kinh nghiệm trong việc phòng chống sỏi tái phát.

Những nguyên tắc mới phù hợp với bệnh sỏi tiết niệuPhải đạt được sự bài tiết nước tiểu với số lượng nhiều hơn người bình thường.Sử dụng thực phẩm đa dạng và cân bằng, phù hợp với từng bệnh nhân. Hết sức lưu ý đến việc phân bố giữa các bữa ăn.Bổ sung vitamin D, B6, chất xơ, kali, magnesium.Ðặc biệt lưu ý đến những thực phẩm dễ tạo sỏi là muối và thịt.

BS. Lê Sĩ Trung